Gdp Đài Loan Năm 2021 Là Gì Trong Tiếng Anh

Gdp Đài Loan Năm 2021 Là Gì Trong Tiếng Anh

Theo đó, Hoa Kỳ vẫn là đối tác cung ứng mặt hàng này lớn nhất cho Đài Loan với tổng trọng lượng đạt 57,3 nghìn tấn chiếm 54,5% tỷ trọng. Kế đến là Thái Lan 28,8 nghìn tấn, 27,48% về tỉ trọng. Và Việt Nam vẫn giữ vững là đối tác cung ứng gạo lớn thứ 3 cho Đài Loan trong năm 2021 song chỉ đạt 15,49 nghìn tấn với kim ngạch đạt 8,52 triệu USD, giảm 14,87% về lượng và giảm 16,66% về kim ngach.

Tiếng Mân Nam (Taiwanese Hokkien) – Ngôn Ngữ Địa Phương Quan Trọng

Hình ảnh minh họa tiếng Mân Nam

Những lưu ý quan trọng học tiếng Mân Nam mà bạn không thể bỏ qua

Tiếng Quan Thoại (Mandarin) – Ngôn Ngữ Chính Thức

Một số từ cơ bản trong tiếng Quan Thoại

Tiếng Khách Gia (Hakka) – Ngôn Ngữ Của Người Khách Gia

Đây là video mà bạn nhất định phải xem không nên bỏ lỡ

Câu trả lời cho câu hỏi “Đài Loan nói tiếng gì?” phản ánh một bức tranh ngôn ngữ đa dạng và phong phú. Tiếng Quan Thoại là ngôn ngữ chính thức và phổ biến nhất, nhưng tiếng Mân Nam và tiếng Khách Gia cũng giữ vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và văn hóa của người dân Đài Loan. Ngoài ra, các ngôn ngữ dân tộc bản địa cũng đóng góp vào sự đa dạng văn hóa của Đài Loan, dù đang đối mặt với nhiều thách thức.

Sự đa dạng ngôn ngữ này không chỉ phản ánh quá trình phát triển lịch sử và văn hóa của Đài Loan mà còn là biểu tượng của một xã hội đa văn hóa, nơi mà các ngôn ngữ khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Hiểu rõ về ngôn ngữ của Đài Loan không chỉ giúp chúng ta giao tiếp hiệu quả hơn mà còn mang lại cơ hội khám phá sâu hơn về một đất nước giàu truyền thống và luôn đổi mới.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2021 tăng 2,58% và đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2021 do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.

Tổng cục Thống kê cho biết, ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% là kết quả từ quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%; quý III giảm 6,02% và quý IV tăng 5,22%. Tăng trưởng GDP năm nay thấp hơn cả năm 2020 do dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III khi nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải đình trệ sản xuất để thực hiện giãn cách xã hội kéo dài phòng chống dịch bệnh.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng của tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%. Khu vực dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%.

Nếu chỉ tính riêng quý IV/2021, GDP ước tính tăng 5,22% so với cùng kỳ năm trước nhưng đều thấp hơn quý IV của các năm trong giai đoạn trước đại dịch 2011-2019.

Nông nghiệp là trụ cột của nền kinh tế

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực.

Ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm và ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Năm nay, hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản diễn ra trong tình hình thời tiết tương đối thuận lợi, giúp năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của các biện pháp giãn cách xã hội kéo dài tại nhiều địa phương gây ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng sản xuất – chế biến – tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Dù vậy, kết quả sản xuất nông nghiệp năm 2021 của cả nước vẫn ở mức khá. Cụ thể, năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,88 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Tuy nhiên, kết quả sản xuất một số cây hằng năm có sự giảm nhẹ như sản lượng ngô giảm 2,9% so với năm 2020; khoai lang giảm 11,2%; đậu tương giảm 9,5%...

Kết quả hoạt động năm 2021 của ngành nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch.

Ngành công nghiệp chế biến chế tạo là động lực tăng trưởng chính

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 6,21%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%. Ngành xây dựng tăng 0,63%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Đây là kết quả khởi sắc của ngành sau khi các địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19

Về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tháng 12/2021 tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5% so với năm 2020 (năm trước tăng 3,3%).

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tới ngày 31/12/2021 tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 21,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 25,3%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2021 là 79,1% (năm 2020 là 71,9%).

Thương mại, dịch vụ hồi phục sau đại dịch

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.

Ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, ngành vận tải kho bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.

Trong quý IV/2021, hoạt động thương mại, vận tải trong nước, khách du lịch quốc tế dần khôi phục trở lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý IV/2021 tăng 28,1% so với quý trước; vận tải hành khách tăng 48,4%, luân chuyển hành khách tăng 51,3% và vận chuyển hàng hóa tăng 31,8%, luân chuyển hàng hóa tăng 28,4%; khách quốc tế đến nước ta tăng 62,7%.

Cụ thể, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong Quý IV/2021 đạt 42.700 lượt người, tăng 62,7% so với quý III/2021 và giảm 12,4% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước đạt 157.300 lượt người, giảm 95,9% so với năm trước.

Ngược lại, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.

Thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ giữa đại dịch

Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Tính đến 24/12. tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định, ước tính cả năm 2021 doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm tăng 15,6% so với năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 21,7%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 1,7%.

Thị trường chứng khoán phát triển mạnh với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2021 tăng 45,5% so với cuối năm trước. Tính đến ngày 27/12/2021, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 26.526 tỷ đồng/phiên, tăng 257,5% so với bình quân năm trước. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 11.421 tỷ đồng/phiên, tăng 9,9%. Khối lượng giao dịch bình quân sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 189.923 hợp đồng/phiên, tăng 21%.

Thu hút vốn đầu tư FDI hồi phục trong những tháng cuối năm

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 đạt 2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm trước, tuy đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua nhưng là kết quả khả quan trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới.

Trong khi vốn từ khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm (lần lượt là 2,9% và 1,1%) so với năm trước thì vốn từ khu vực ngoài Nhà nước lại tăng mạnh 7,2% và chiếm tỉ trọng 59,5%.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam.

Tính đến ngày 20/12/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.

Trong năm 2021 vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài có sự tăng nhẹ với 61 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 409,1 triệu USD, tăng 28,6% so với năm trước; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn điều chỉnh giảm 776 triệu USD.

Do tháng 12/2021, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã điều chỉnh vốn giảm 1,2 tỷ USD của dự án thăm dò phát triển và khai thác dầu khí tại Nga. Nếu không tính dự án này, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) năm 2021 đạt 828,7 triệu USD.

Thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán 13%

Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế tiếp tục phục hồi giúp cho thu ngân sách Nhà nước ước tính cả năm 2021 đạt 1.523,4 nghìn tỷ đồng và vượt dự toán năm 13,4% (tăng 180,1 nghìn tỷ đồng).

Chi ngân sách Nhà nước tập trung ưu tiên cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, khắc phục thiên tai, đảm bảo quốc phòng, an ninh và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh. Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2021 ước tính đạt 1.839,2 nghìn tỷ đồng, bằng 109% dự toán năm.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.

Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,16%.

Cơ quan quản lý Ngân sách, Kế toán và Thống kê Đài Loan (DGBAS) ngày 02/6 đã hạ dự báo tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Đài Loan cho năm 2023 xuống 2,04%, thay vì 2,12% như dự đoán trước đó với lý do hiệu suất xuất khẩu yếu hơn.

(Xuất khẩu giảm là một trong những nguyên nhân chính khiến DGBAS hạ dự báo tăng trưởng GDP của Đài Loan)

Theo đó, DGBAS đã cắt giảm 0,08 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng GDP so với ước tính trước đó vào tháng 2 xuống còn 2,04%, đây sẽ là mức thấp nhất kể từ năm 2015, khi nền kinh tế địa phương tăng trưởng 1,47%.

Đài Loan đã hy vọng giữ mức tăng trưởng GDP trên 2% trong năm nay, nhưng xuất khẩu giảm và hoạt động đầu tư kém hơn mong đợi đã khiến các tổ chức tư vấn lớn cắt giảm dự báo.

DGBAS cho hay, lạm phát cao, chu kỳ tăng lãi suất mạnh mẽ và chiến tranh Nga - Ukraine vẫn đang ảnh hưởng đến nhu cầu toàn cầu, buộc chuỗi cung ứng phải điều chỉnh hàng tồn kho khiến cơ quan này cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2023 của Đài Loan.

Trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu suy yếu, DGBAS đã hạ dự báo tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Đài Loan và cho rằng cơ sở so sánh tương đối cao vào năm ngoái cũng được quy cho việc sụt giảm này. Theo DGBAS, xuất khẩu hàng hóa của Đài Loan trong năm 2023 dự kiến ​​sẽ giảm 7,27% so với một năm trước đó xuống chỉ còn 444,6 tỷ USD.

Tuy nhiên, DGBAS đã nâng dự báo tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Đài Loan với lý do sự gia tăng của du khách Đài Loan ra nước ngoài, điều này hỗ trợ cho nhập khẩu dịch vụ. Theo DGBAS, nhập khẩu hàng hóa của Đài Loan dự kiến ​​sẽ đạt 387,3 tỷ USD, giảm 9,51% so với một năm trước đó.

Trong khi Đài Loan đang phải đối mặt với doanh số bán hàng ra nước ngoài giảm, DGBAS cho biết đảo này sẽ chứng kiến ​​mức tiêu dùng tư nhân mạnh mẽ khi các biện pháp kiểm soát COVID-19 được nới lỏng sẽ khuyến khích chi tiêu. DGBAS đã nâng dự báo tăng trưởng tiêu dùng cá nhân cho năm 2023 thêm 1,68 điểm phần trăm lên 6,92% và hạ dự báo tăng trưởng đầu tư tư nhân của Đài Loan vào năm 2023 xuống 1,36 điểm phần trăm so với ước tính trước đó xuống âm 2,49% do những bất ổn kinh tế toàn cầu đã khiến nhiều công ty ở đây thận trọng trong việc mở rộng bằng cách cắt giảm chi tiêu vốn. DGBAS cho biết việc hạ dự báo tăng trưởng đầu tư tư nhân cũng phản ánh cơ sở so sánh tương đối cao vào năm 2022.

DGBAS cho biết trong quý đầu tiên của năm nay, GDP của Đài Loan đã giảm 2,87%, do nhu cầu toàn cầu vẫn đang bị ảnh hưởng do chiến tranh ở Ukraine, lạm phát và lãi suất tăng. Con số này tăng 0,15 điểm phần trăm so với thống kê sơ bộ trong tháng 4 là giảm 3,02%. Theo DGBAS, dữ liệu thống kê GDP của Đài Loan trong quý đầu tiên năm nay là mốc tồi tệ nhất trong 14 năm.

DGBAS cho biết GDP của Đài Loan dự kiến ​​sẽ tăng 1,82% trong quý II, 3,18% trong quý III và 5,77% trong quý IV.