Tiểu Sử Thứ Trưởng Trần Quốc Tỏ

Tiểu Sử Thứ Trưởng Trần Quốc Tỏ

Sáng 15/8, Ban chỉ đạo (BCĐ) phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội (TNXH) và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (TDBVANTQ) xã Thanh Sơn (Kim Bảng) tổ chức ngày hội TDBVANTQ năm 2024.

Thạc sĩ Chính sách công tại Nhật Bản

Chuyên viên Vụ Quản lý Khu công nghiệp - Khu chế xuất (nay là Vụ quản lý các Khu kinh tế), Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Phòng thư ký Tổng hợp, Văn phòng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Vụ phó Vụ quản lý các Khu kinh tế

Vụ trưởng Vụ quản lý các Khu kinh tế

Vụ trưởng Vụ Kinh tế địa phương và Lãnh thổ

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn. Ông là con An sinh vương Trần Liễu, cháu gọi Trần Thái Tông bằng chú.

Quê ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Được phong ấp ở hương Vạn Kiếp, thuộc huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang.

Ông sinh năm 1226, mất năm 1300, thọ 74 tuổi.

Ông là anh hùng dân tộc, “Bình Bắc Đại Nguyên Soái”, là nhà quân sự thiên tài, nhà chính trị vẹn toàn tài đức, bậc “đại bút”.

Theo truyền thuyết, từ nhỏ Trần Quốc Tuấn đã ham thích trò chơi đánh trận, sáu tuổi biết làm thơ. Lớn lên, học vấn rất uyên bác, vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành thạo. Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau, trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287-1288), ông lại được đề bạt làm Tiết chế Thống lĩnh toàn quân và đã giành thắng lợi lẫy lừng, đánh tan quân Nguyên ra khỏi bờ cõi đất nước.

Là một vị tướng tài kiêm văn võ, biết đánh giá đúng vai trò quan trọng của dân- nền tảng của xã tắc- và của quân- lông cánh của chim hồng chim hộc- Trần Hưng Đạo đã biết đề ra một đường lối quân sự ưu việt, có tính chất nhân dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rút lui chiến lược khỏi Kinh thành Thăng Long, tránh cho nhà Trần những tổn thất lớn, và tạo thời cơ bẻ gãy lực lượng của địch. Những kế hoạch làm vườn không nhà trống trên khắp các nẻo đường mà giặc đi qua, những hoạt động phối hợp nhịp nhàng giữa hương binh và quân đội chính quy của nhà nước, những trận phục kích lừng danh như trận Bạch Đằng đã làm cho tên tuổi của ông sống mãi. Ngay đến kẻ thù cũng phải nhắc đến mấy chữ Hưng Đạo Vương với niềm kính trọng.

Bên cạnh tư tưởng quân sự kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn còn nêu một tấm gương về lòng trung nghĩa sáng suốt, biết gạt bỏ mọi hiềm khích riêng để đoàn kết các tôn thất và tướng tá trong triều nhằm phò vua giúp nước, đánh bại kẻ thù. Sử sách từng ghi lại câu nói nổi tiếng của ông với vua Trần Thánh Tông, khi đất nước đang lâm vào tình thế nghìn cân treo sợi tóc: “Xin bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi sau sẽ hàng”. Cho đến trước khi chết ông vẫn ân cần dặn vua Trần Anh Tông trong mọi chính sách của nhà nước phong kiến phải biết “Nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Ông không những là một công thần của nhà Trần mà còn là một Anh hùng lớn của dân tộc.

Ông thường tiến cử nhiều người có tài ra giúp nước, lập nên công nghiệp lớn như: Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu… bất kể họ thuộc thành phần xã hội nào.

Trần Quốc Tuấn mất ngày 20 tháng Tám năm Canh tý (3-IX-1300) tại Vạn Kiếp. Sau khi mất, ông được triều đình phong tặng Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công, Nhân võ Hưng Đạo Đại Vương. Đền thờ ông tại Vạn Kiếp gọi là “Đền Kiếp Bạc”.

– Binh gia diệu lý yếu lược (Còn gọi là Binh thư yếu lược).

– Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Còn gọi là Hịch tướng sĩ). Đây là bài hịch viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, nhằm kêu gọi tướng sĩ chăm lo luyện tập và nghiên cứu binh thư để kịp thời đối phó với âm mưu xâm lược của giặc. Bài hịch chứng tỏ tài năng văn chương trác luyện và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của Trần Quốc Tuấn.

Ông được xếp vào danh sách Mười Đại nguyên soái Thế giới kiệt xuất nhất.

Kính thưa quý thầy cô giáo cùng tất cả các bạn học sinh!

Cờ đề sáu chữ, quyết vào lập công"

Tên tuổi anh hùng Trần Quốc Toản đã đi vào lịch sử dân tộc với lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước. Khí phách ấy đã được thể hiện trên lá cờ thêu 6 chữ:

"Phá cường địch, báo hoàng ân".

Thật vinh dự khi chi đội 6A chúng em được mang tên người anh hùng dân tộc Trần Quốc Toản. Tự hào về điều đó không gì hạnh phúc hơn khi tất cả chúng em  được sống trong một đất nước hòa bình, ấm no, hạnh phúc và để tỏ lòng tri ân các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì nền độc lập của dân tộc nói chung và người anh hùng Trần Quốc Toản nói riêng, chúng em nguyện noi theo tấm gương anh dũng của anh xin hứa sẽ cùng nhau thi đua học tập, rèn luyện phấn đấu là những con ngoan, trò giỏi, xứng danh tên gọi mà chi đội mình mang tên Chi đội Trần Quốc Toản.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Sinh ngày 12/4/1979 tại Huyện Hà Trung, Thanh Hóa

Phó bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ Kế hoạch và Đầu tư

TIỂU SỬ ANH HÙNG THIẾU NIÊN TRẦN QUỐC TOẢN

TRẦN QUỐC TOẢN ( 1267-1285 )      Trần Quốc Toản thuộc dòng dõi nhà vua và sinh vào năm Đinh Mão ( 1267 ). Ông lớn lên trong không khí cả nước náo nức chuẩn bị chiến đấu chống quân Nguyên sang cướp phá và xâm lược nước ta lần thứ hai ( 1285 ).       Năm 1282, triều Trần đã tổ chức một cuộc hội nghị quân sự rất đặc biệt tại bến Bình Than ( Hội nghị Bình Than ). Tham dự hội nghị này là các quý tộc và các tướng lĩnh cao cấp nhất của nhà Trần. Bấy giờ, tuy là quý tộc, đã từng phong tới tước Hầu - Hoài Văn Hầu - nhưng vì còn ở tuổi vị thành niên nên không được tham dự. Hoài Văn Hầu lấy đó làm điều hổ thẹn và căm tức lắm, tay đang cầm quả cam mà bóp nát lúc nào không hay. Khi về nhà , Trần Quốc Toản cùng với một ngàn người là tôi tớ và thân thuộc, sắm sửa binh khí và chiến thuyền, dựng cờ thêu sáu chữ “ Phá cường tặc, báo hoàng ân” ( nghĩa là : phá giặc mạnh, báo đáp ơn vua ). Khi đánh nhau với giặc Nguyên, Trấn Quốc Toản thường xông ra phía trước, khiến cho giặc hễ thấy là phải tránh lui, không ai dám đối địch.         Khi cuộc chiến tranh lần thứ hai nổ ra, Trần Quốc Toản cũng vừa đến tuổi thành niên. Đội quân hơn một ngàn người do Trần Quốc Toản lập ra và trực tiếp chỉ huy đã sát cánh chiến đấu với quân đội chủ lực của triều đình, lập được nhiều chiến công xuất sắc.      Tháng 4 -1285, cùng với các vị danh tiếng khác như Chiêu Thành Vương, Nguyễn Khoái, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản được tham gia vào bộ chỉ huy chiến dịch Tây Kết. Trước khi đánh vào Tây Kết, quân sĩ của các tướng này đã tham gia chiến dịch Hàm Tử , góp phần rất lớn vào thắng lợi của chiến dịch Hàm Tử. Sau chiến thắng của chiến dịch Tây Kết, ông lại được cùng với Trần Quang Khải và nhiều tướng lĩnh khác như : Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền ... tham gia chiến dịch Thăng Long và Chương Dương. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản đã anh dũng hi sinh trong chiến dịch này.

***********************************

Trần Quốc Toản sinh năm Đinh Mão (1267), là con của Vũ Uy Vương Trần Nhật Duy và bà Trần Ý Ninh. Trần Nhật Duy lại là con trai vua Trần Thái Tông nên Trần Quốc Toản là cháu nội của vua Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên đời nhà Trần.

Trần Quốc Toản xuất thân trong dòng dõi quý tộc, được phong tước Hầu khi vừa tròn 15 tuổi, sống trong thời vua Trần Nhân Tông, là một anh hùng có công trong cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai.

Sau chiến thắng quân Mông Cổ xâm lăng Đại Việt lần thứ nhất (năm 1257-1258), Trần Nhật Duy là Tổng trấn biên giới phía Bắc và vợ là Trần Ý Ninh cùng một số tướng lãnh được vua Trần Thánh Tông cử sang giúp nhà Tống, vì sợ rằng quân Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống xong thì sẽ kéo sang đánh Đại Việt thêm một lần nữa.

Tháng 10 năm 1282, vua Trần Nhân Tông mở hội nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên. Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản và Hoài Nhân Vương Kiện vì còn trẻ tuổi nên không được vào hội nghị để bàn quốc sự. Trần Quốc Toản phẫn nộ, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Trần Quốc Toản quay về, huy động hơn ngàn người thân thuộc, mua sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân".

Chẳng bao lâu, tiếng tăm Trần Quốc Toản và là cờ thêu 6 chữ được loan truyền khắp mọi nơi. Sau đó, Trần Quốc Toản được Hưng Đạo Vương khen ngợi và cho dự bàn việc nước tại Vạn Kiếp.

Tháng 4 năm 1285, vua Trần Nhân Tông cử Chiêu Thành Vương, Trần Quốc Toản và tướng Nguyễn Khoái đem binh chận đánh quân Nguyên ở bến Tây Kết.

Ngày 10 tháng 5, quân Nguyên bị đánh bại ở Kinh Thành và Chương Dương. Tướng Nguyên là Thoát Hoan, Bình Chương A Lạt bỏ chạy qua sông Lô.

Theo sách Việt sử Kỷ yếu của Trần Xuân Sinh, khi Ô Mã Nhi đánh vào Vân Đồn để cướp lại lương thực thì quân của Trần Quốc Toản và Trần Khánh Dư chống trả kịch liệt. Trần Quốc Toản bị tử thương trong trận đánh này.

Trong Đại Việt Sử ký Toàn khoa chép: "... Đến khi Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mất, vua rất thương tiếc, đích thân viết văn tế và gia phong tước Vương".

Sau này, để tưởng nhớ công đức của ngài, nhiều trường học và một số con đường trong các tỉnh thành được đặt tên Trần Quốc Toản. Ngoài ra tên của ngài còn được đặt cho một chiến hạm HQ-6 của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa.

Trần Quốc Toản có thể là một vị tướng trẻ tuổi nhất được vinh danh trong lịch sử nước Việt. Ngài được xưng tụng không phải vì năng lực cầm quân mà là tấm lòng yêu nước cao độ trước hiểm họa xâm lăng của giặc phương Bắc. Triều đại nhà Trần đã may mắn có được những danh tướng lẫy lừng, gây khiếp sợ cho Hốt Tất Liệt của Mông Cổ, trong số đó có vị thiếu niên 16 tuổi là Trần Quốc Toản và biết bao thanh thiếu niên khác nữa đã chiến đấu dưới lá cờ "Phá cường địch, báo hoàng ân" của ngài.

Chính nhờ những con người có tấm lòng yêu nước tha thiết đó, triều đại nhà Trần mới có thể 3 lần đánh bại quân Nguyên và mang lại nền tự chủ suốt 175 năm cho dân tộc Việt.

Đất nước Việt hiện nay cũng trực diện với hiểm họa xâm lăng đến từ kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa. Điều may mắn là dân tộc Việt đang có rất nhiều người trẻ tuổi kế thừa dòng máu bất khuất của Trần Quốc Toản đã anh dũng đứng lên đấu tranh, bất chấp sự đàn áp dã man của tập đoàn lãnh đạo cộng sản đang muốn dâng đất nước này cho giặc phương Bắc.

Lịch sử mai sau chắc chắn sẽ vinh danh họ, những công dân áo vải đang "đáp lời sông núi" để đứng lên "phá cường địch", giữ vững mảnh sơn hà xã tắc mà tiền nhân Việt đã phải đổ biết bao xương máu để dựng nước và giữ nước gần 5 ngàn năm qua!

*******************************************************

Đây là bài thơ Đường luật (thất ngôn tứ tuyệt) viết bằng chữ Hán, không rõ thời điểm sáng tác, thể hiện "chí khí lập công giúp nước của tác giả"[1].

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,

Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng át cả sao Ngưu [2].

Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,

Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu [3].

Nhìn chung, đây là bài thơ "ngắn gọn, đạt đến độ súc tích cao, khắc họa được vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lý tưởng, có nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại" [4]